ĐBSCL: Kỳ vọng quy hoạch nuôi tôm nước lợ

Quy hoạch ngành tôm thời gian tới tập trung theo hướng hiện đại hóa, phát triển mang tính hệ thống, bền vững và hướng tới phục vụ thị trường phát triển hiện đại, trong đó, trọng tâm là đảm bảo các tiêu chuẩn quốc tế. Mục tiêu quy hoạch không chỉ tập trung vào diện tích, sản lượng như trước kia mà được hiểu là một quy hoạch tổng thể bao gồm cả nuôi trồng, chế biến, giống, thuốc, kiểm định sản phẩm, truy xuất nguồn gốc… Liệu có thể phát triển nhiều loài? Trong quy hoạch tổng thể về nuôi tôm nước lợ, phần lớn đề cập tới hai loại tôm sú và tôm thẻ chân trắng. Theo các chuyên gia, đây là điều dễ hiểu vì hai loài tôm chủ lực này hàng năm đem về hàng tỷ USD giá trị xuất khẩu, giải quyết công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu người. Song cũng có ý kiến cho rằng, quy hoạch nuôi tôm nước lợ đến năm 2030 không nên chỉ đề cập tới tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Một số người đề cập đến tôm càng xanh chẳng hạn, cũng hoàn toàn có thể phát triển trong môi trường nước lợ. Diện tích và giá trị nuôi tôm càng xanh hiện còn khiêm tốn, nhưng nếu tính cái mốc 2030 thì việc “độc canh” tôm thẻ chân trắng và tôm sú liệu đã hợp lý? Quy hoạch mang tính định hướng và việc đa dạng hóa các loại tôm sẽ không chỉ giảm thiểu rủi ro trong sản xuất nuôi trồng mà còn đảm bảo sự phát triển đa dạng của ngành tôm. Như vậy, diện tích nuôi tôm càng xanh đến năm 2030 sẽ là bao nhiêu? Nhiều người dân cho biết, môi trường tôm nước lợ ở ĐBSCL rất nhiều loài, vì ngoài nuôi tôm công nghiệp, người dân còn nuôi tôm quảng canh, với nhiều loài tôm có trong tự nhiên mà người dân thích ăn. Chẳng hạn người dân thường ăn tôm thẻ chân đỏ trong tự nhiên. Ngày nay, khi vào các nhà hàng ở ĐBSCL thì món tôm đặc sản được ưa chuộng nhất là tôm đất. Đảm bảo sự đa dạng sinh học, tránh sự suy giảm về loài do quá trình thương mại hóa là điều cần thiết trong một quy hoạch. Thông thường thì các doanh nghiệp và địa phương sẽ chú trọng nhiều hơn đến các loài mang tính thương mại cao và việc bảo tồn đa dạng sinh học của các loài tôm sẽ cần đến các nhà khoa học, quản lý và tiếng nói của người dân - những người thích ăn các loài tôm truyền thống nội địa. Cần lộ trình cụ thể Nguyên Bộ trưởng Bộ Thủy sản Tạ Quang Ngọc cho biết, thời gian thực hiện quy hoạch là điều cần phải quan tâm trong các bản quy hoạch, bởi có lúc ông đã đọc những bản quy hoạch chỉ trong 3 năm (vì mất hai năm chuẩn bị và thông qua). Mong muốn thì nhiều, nhưng thời gian, vật lực, nhân lực lại không thể đáp ứng được yêu cầu. Quy hoạch lần này, thời hạn gần chỉ chưa đầy 5 năm, nếu dây dưa, thì không biết đến bao giờ mới triển khai được. Sự phân chia các hạng mục cụ thể trong gian đoạn 5 năm và giai đoạn 15 năm cần phải rõ ràng hơn. Một số khác cho rằng, công tác quy hoạch hiện nay còn nặng hình thức, vì quy hoạch sẽ được thực hiện như thế nào, được bao nhiêu phần trăm? Vốn cho việc thực hiện ra sao, nguồn tài chính hỗ trợ từ doanh nghiệp, từ trong nước, ngoài nước như thế nào để thực hiện? Những câu hỏi này nếu không được trả lời rõ ràng thì khả năng thực thi rất khó. Bi kịch ở chỗ: “Nếu quy hoạch đã thông qua rồi, thì rất khó sửa và khó thay đổi, bởi vì khác với các dự án khác, quy hoạch chỉ có một mà thôi, bởi vậy nó cần được đầu tư nhiều hơn và mang tính khoa học cũng như thực tiễn cao hơn”. >> Theo đề án quy hoạch, diện tích nuôi tôm nước lợ vùng ĐBSCL đến năm 2020 khoảng 608.501 ha, sản lượng đạt 747.895 tấn; năm 2030, diện tích đạt 626.727 ha; sản lượng 952.118 tấn. Nguyên Anh

< Trở lại